Bạn đã từng nghe nói đến mang thai hộ hay “đẻ thuê”? Vậy pháp luật quy định vấn đề này ra sao. Con sinh ra là con của ai? Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu về nội dung này qua bài viết dưới đây.

Mang thai hộ hay “đẻ thuê” là những cụm từ không còn xa lạ trong thời gian gần đây. Pháp luật Việt Nam cũng đã có những quy định nhằm ngăn chặn việc mang thai hộ. Trong bối cảnh lấy ý kiến đóng góp sửa đổi Luật hôn nhân và gia đình.  việc xây dựng một bộ khung pháp lý. Để giải quyết những hệ lụy liên quan đến vấn đề mang thai hộ thực sự đang làm đau đầu các nhà làm luật.

Thực trạng và vấn đề phát sinh của mang thai hộ

Với tình trạng vô sinh, vợ chồng hiếm muộn ngày một nhiều. Hay đơn giản chỉ là không muốn trực tiếp sinh con để giữ vóc dáng. Thì nhu cầu mang thai hộ, “thuê đẻ” thực sự là có thật. Pháp luật về hôn nhân và gia đình đã có quy định cấm việc mang thai hộ. Thậm chí có chế tài xử phạt nặng vấn đề này. Nhưng thực tế những “giao dịch” ngầm vẫn tồn tại. Và việc đẻ thuê mang thai hộ vẫn xảy ra.

Đa số các ý kiến cho rằng mang thai hộ là vi phạm về đạo đức, thuần phong mỹ tục, vi phạm pháp luật. Bởi lẽ, với phong tục tập quán của người Việt từ lâu đời. “Con ruột phải do người mẹ mang nặng đẻ đau sinh ra. Tình mẫu tử là rất thiêng liêng”. Mặc dù là mang thai hộ nhưng cũng trải qua chín tháng, mười ngày, do đó sợi dây tình cảm giữa đứa trẻ với người mẹ không thể tự nhiên dứt bỏ. Việc sinh ra và phải “trả con” cho người khác, tình “mẫu tử” bị chia cắt là không phù hợp và trái đạo lý.

Hiện nay, Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 chưa có một quy định nào về vấn đề mang thai hộ tuy nhiên Nghị định số 12/2003/NĐ-CP về sinh con theo phương pháp khoa học đã nghiêm cấm hành vi mang thai hộ này.

Cần có một quy định mở về mang thai thai hộ cho một số trường hợp đặc biệt

Ở một khía cạnh khác, có người lại cho rằng cần cho phép mang thai hộ nhưng nghiêm cấm “giúp trực tiếp”. Để bảo vệ quan điểm này, người ta lý giải rằng với những trường hợp người vợ không thể mang thai. Nhưng hai vợ chồng đều có khả năng có con, mà thông qua con đường thụ tinh ống nghiệm. Vợ chồng họ lấy trứng và tinh trùng để nuôi phôi thai rồi cấy phôi để chị, em gái hoặc người thân tình nguyện mang thai hộ. Thì cần được nhìn nhận một cách toàn diện và nhân văn.

Bởi trong quan hệ mang thai hộ này không tồn tại yếu tố “tiêu cực” nào. Người chồng không có quan hệ tình dục trực tiếp với người mang thai hộ. Và đứa trẻ được hình thành từ trứng của người vợ, tinh trùng của người chồng. Nên dù không phải do người vợ mang thai thì vẫn là “máu mủ” của họ.

Do đó vấn đề cấm hay không cấm mang thai hộ cần được Ban soạn thảo sửa đổi Luật hôn nhân và gia đình mang ra bàn thảo tiếp. Nên chẳng cần có một quy định mở để đảm bảo cho một số trường hợp đặc biệt

Hệ quả pháp lý mang thai hộ: Con sinh ra là con của ai?

Trong quá trình soạn thảo sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000. Nhiều ý kiến đề cập đến khó khăn, bất cập trong việc giải quyết các vụ liên quan về mang thai hộ. Bởi lẽ hiện tại chưa có quy định cụ thể hậu quả pháp lý như xác định cha, mẹ đứa trẻ được sinh. Các quyền nhân thân và tài sản của đứa trẻ với những người có liên quan. (Người mang thai hộ, người nhờ mang thai hộ).

Con sinh ra là con của ai?

Nhiều người đặt câu hỏi: Đứa trẻ sinh ra từ việc mang thai hộ là con của “người đẻ” hay con của người mẹ “nhờ đẻ”? Thực tế người mẹ mang thai hộ và sinh ra đứa trẻ về mặt sinh học thì không phải là mẹ của đứa trẻ ấy, nhưng về mặt quan hệ dân sự lại là quan hệ mẹ ruột – con ruột, trong khi về mặt pháp luật lại không được thừa nhận.

Việc xác định đứa trẻ là con của người này hay con của người kia không đơn thuần là xác định mối quan hệ cha mẹ con mà còn liên quan đến vấn đề nhân thân, về quyền thừa kế và các quyền dân sự khác.

Thiết nghĩ, Luật hôn nhân sửa đổi bổ sung Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 cần quy định cụ thể về mang thai hộ, hậu quả pháp lý của việc mang thai hộ nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của trẻ em sinh ra từ quan hệ này.

Điều 31. Vi phạm các quy định về sinh con theo phương pháp khoa học

1. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây:

a) Tiết lộ các thông tin về tên, tuổi, địa chỉ và hình ảnh của người cho, nhận tinh trùng, phôi;

b) Thực hiện việc cho, nhận noãn; cho, nhận tinh trùng; cho, nhận phôi khi không được phép thực hiện;

c) Không bảo đảm điều kiện thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh sản theo quy định.

2. Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây:

a) Mang thai hộ;

b) Sinh sản vô tính.

3. Biện pháp khắc phục hậu quả: buộc phải khắc phục tình trạng không bảo đảm điều kiện thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh sản theo quy định đối với hành vi vi phạm tại điểm c khoản 1 của Điều này.

(Nghị định 45/2005/NĐ-CP quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực Y tế